Sổ tay Văn học 11

Đám tang lão Gôriô – Banzăc

Tác giả

Banzăc (1799 – 1850) là nhà tiểu thuyết Pháp nổi tiếng, “một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực”. Ông đã sáng tạo ra bộ “Tấn trò đời” đồ sộ, bất hủ gồm 87 tác phẩm với trên 2000 nhân vật. Miếng da lừa (1871), Ơgiêni Grăng đê (1833), Lão Gôriô (1834), Ảo mộng tiêu tan (1837 – 1843),… là những kiệt tác của Banzăc.

Bằng ngòi bút chân thực, cụ thể lịch sử, Banzắc đã xây dựng hàng loạt tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Qua bộ Tấn trò đời, tác giả đã phê phán xã hội tư sản, vì nó như một tấn hài kịch, trong đó đồng tiền tác oai tác quái, gây ra biết bao bi kịch đau lòng.

Phân tích đoạn văn “Đám tang lão Gôriô”

1. Lão Gôriô xưa kia nhờ buôn bán lúa mì mà giàu có. Nhưng hai “ái nữ” của lão đã bòn rút đến đồng vàng cuối cùng. Cuối đời lão sống cô đơn, nghèo khổ trong cái quán trọ tồi tàn của mụ Vôke. Lão chết năm 69 tuổi. Không một người thân thích. Người ta đã tháo đinh quan tài, đặt lên ngực lão “cái hình ảnh” của hai cô con gái yêu thương của lão khi chúng nó “còn bé bỏng, đồng trinh và trong trắng…” – Một chi tiết hiện thực vô cùng chua chát nói lên sự vô tình, bạc bẽo của hai đứa con gái lấy chồng giàu sang.

2. Chỉ có Raxtinhăc và Crixtôphơ (hai người cùng ở chung nơi quán trọ) cùng với hai gã đô tuỳ đưa lão đến ngôi nhà thờ Thánh – Êchiên-đuy-Mông. Xác chết của kẻ nghèo khó được đặt trước một giáo đường nhỏ, thấp và tối. Tang lễ sơ sài, qua quýt mất 20 phút với cái giá 70 quan do hai vị linh mục, chú bé hát lễ và người bõ nhà thờ. Tang lễ qua quýt thế thôi, rẻ rúng thế thôi, bởi lễ “trong một thời kỳ mà tôn giáo không lấy gì làm giàu lắm để cầu kinh làm phúc”. Như vậy là, Thánh đường, linh mục, tang lễ… đều được cân, đo, đong, đếm bằng tiền.

Bốn người có mặt trong tang lễ cũng vì tiền mà đến. Crixtôphơ vì nghĩa vụ” mà anh ta đến đưa đám, vì lão Gôriô chết “đã làm cho anh ta kiếm được mấy món tiền đãi công kha khá”.

3. Không có người đưa đám, lại đã năm giờ rưỡi rồi, xác chết lão Gôriô được chở nhanh đến nghĩa địa, lúc ấy có hai chiếc xe có treo huy hiệu nhưng không có người ngồi, một của bá tước Đơ Rextô, và một của nam tước Đơ Nuyxinghen theo sau chiếc xe tang đến nghĩa địa! Dù là con gái, nhưng nay đã trở thành mệnh phụ rồi, không thể đi đám ma một kẻ nghèo khó, hèn mọn! Một nét vẽ sâu sắc lên án tình đời bạc bẽo!

4. Cảnh hạ huyện vội vội vàng vàng. Bài kinh ngắn cầu cho kẻ xấu số do chàng sinh viên trả tiền (như một sự bố thí). Người nhà hai cô con gái và đám người nhà đạo biến ngay! Hai dã đào huyệt mới hất được vài xẻng đất xuống che lấp chiếc áo quan thì ngẩng đầu lên đòi tiền đãi công! “Ơ gien móc túi thấy không còn đồng nào, chàng buộc phải vay Crixtôphơ 20 xu”. Cái món nợ này lại ghi vào số nợ của người xấu số ngày một thêm chồng chất! Ai sẽ trả cho lão Gôriô?

Cảnh nghĩa địa là “ngày tàn, một buổi hoàng hôn ẩm ướt” trên bầu trời có những đám mây. Trong cái khung cảnh buồn bã ấy, Raxtinhăc “não lòng ghê gớm”… “giọt nước mắt tràn ra…”. Đây là giọt nước mắt duy nhất trong đám tang lão Gôriô.

Kết luận

Một đám tang của kẻ già nua, cô đơn và nghèo hèn. Số tiền làm lễ ở nhà thờ, tiền đọc kinh cầu nguyện lúc hạ huyệt, tiền đãi công phu đào huyệt, và tiền thuê đòn đám ma – bấy nhiêu khoản tiền, ai bố thí cho lão Gôriô? Cha cố và con chiên, cha và con,… tất cả đều vì tiền. Bằng những chi tiết chân thực, cụ thể, Banzăc đã là hiện lên một đám tang của kẻ nghèo hèn trong cái xã hội kim tiền, tình đời đen bạc. Chúng ta hãy đọc lên vần thơ này để ai điếu lão Gôriô bất hạnh:

“… Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy,

Xe tang đi về tận thế giới nào?

Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,

Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó…”

(“Nhạc sầu” – Huy Cận)

Ebook, Sách tham khảo - Tags: , ,